Với kiến tạo địa hình
núi non trùng điệp như những con sóng biển lớp lớp dâng trào đã tạo ra cho vùng
đất Nam Sơn một vẻ đẹp lạ thường. Vẻ đẹp ấy đã làm ngây ngất những người khách
viễn phương, làm rung động tâm hồn những thi hào dân tộc. Hồ Xuân Hương
"Bà chúa thơ nôm" đã từng đi qua đây và tràn đầy cảm xúc với bài thơ
Đường luật:
Đèo
Ba Dội
Một đèo, một đèo lại một đèo.
Khen ai khéo tạc cảnh cheo
leo...
Thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều
bất hủ cũng có một bài thơ nói về Tam Điệp. Đó là bài "Tái du Tam Điệp
sơn" mà ngày nay đã hơn 200 năm trôi qua, người đọc vẫn có cái cảm xúc của
một tâm hồn vĩ đại trước cảnh đẹp tuyệt vời. Bài thơ được viết bằng chữ Hán:
Dịch
thơ:
Lại vượt đèo Ba Dội
Chạm mây núi Ba Dội
Người viễn khách lại qua
Trong mắt thu đất lớn
Ngoài khơi thấy
thuyền xa
Sương tan đồi núi
trọc
Trời lạnh cây cỏ già
Bao chồn khách ngoảnh
lại
Càng thêm nhớ quê nhà
Theo như lời bình của Trương Chính và
Phùng Khắc Hoan, người đã dịch bài thơ này thì đây có lẽ là một lời tiên đoán
tài tình của cụ Nguyễn Tiên Điền hơn hai thế kỷ trước về tương lai sán lạn của
vùng đất này. Bởi vì trong hàng nghìn bài thơ chữ Hán của mình, đây là trường
hợp duy nhất tác giả dùng cụm từ "đại địa" (đất lớn).
Năm 1842, Vua Thiệu Trị trong chuyến
kinh lý Bắc Hà lần đầu tiên đã dừng chân trên đỉnh đèo Tam điệp và cho khắc vào
bia đá một bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ
Hán hiện còn lưu giữ đến bây giờ.
Phiên âm:
Quá
Tam Điệp sơn
Đương lộ sầm khâm tích thuý
nùng
Tầng tầng túng bộ khoá cù
long
Bất vi Vương Ôc không lưu
kính
Cánh tác La Phù thặng biệt
tung
Viễn nhạ tưởng phùng lâm nhất
đính
Cao phan điệt xuất thượng
trùng phong
Tán, nguyên phân trấn Thanh
ninh cảnh
(Tam sơn giáp lưỡng tỉnh, tiền vi
Thanh tỉnh, hậu vi Ninh Bình tỉnh, trung phân giới hạn). Khởi phục bàn hồi diệu
tú chung. Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật, Cung nguyên ngự chế thi
nhất thủ.
Dịch
nghĩa:
Qua đèo Tam Điệp
Đường núi cao chót
vót gập gềnh cây cối xanh tốt
Từng bước trên con
đường quanh co như khúc rồng
Nếu không phải con
đường đi lại của những kẻ săn bắt
Trông ra tưởng là chỉ
có một ngọn núi ở trước mặt
Trèo lên cao thì mới
thấy nhiều núi trùng điệp
Núi liên tiếp nhau
chia đất thành hai tỉnh Thanh hoá Ninh Bình.
(Ba
ngọn núi giáp hai tỉnh, phía trước là Thanh Hoá, phía sau là Ninh Bình, giữa
phân giới hạn. Núi cao núi thấp quanh
co vô cùng là khéo và đẹp. Ngày lành tháng 12 năm Thiệu Trị thứ hai (1842).
Kính cẩn chạm khắc.
Dịch
thơ:
Qua đèo Tam Điệp
Đường đi đèo núi lượn vòng
cong
Bậc bậc noi theo tựa khúc
rồng
Há như Vương Ôc* không đường
tắt
Còn giúp La Phù** tỏ lối
thông
Xa ngắm tưởng là lên một đỉnh
Vin trèo lại thấy núi non
chồng
Ninh Binh Thanh Hoá nơi giao
giới
Cao thấp chầu lên đẹp lạ
lùng.
Bản dịch
của Lê Xuân Quang
Ngoài
các tác giả trên còn có các nhà thơ nổi tiếng như Ngô Thì Sĩ, Ninh Tốn, Lê Hữu Trác, Đoàn
Nguyên Tuấn, Nguyễn Khuyến... cũng đã để lại cho vùng đất Tam Điệp những bài
thơ còn sống mãi với thời gian. Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến nay
đã có khá nhiều tác phẩm văn thơ nhạc kịch ca ngợi cảnh đẹp và truyền thống
lịch sử của vùng đất Đồng Giao Tam Điệp.
Từ thời xa xưa đến những năm trước khi hoà
bình lập lại ở miền Bắc (1954) vùng đất Tam Điệp luôn chứa nhiều câu chuyện
rùng rợn. Nào là hổ báo hùm beo, nào là giết người cướp của, nào là ma thiêng
nước độc nên khách bộ hành không dám đi lại một mình mà phải nán lại ở Gềnh để
mộ thêm khách vãng lai thành một đoàn khá đông rồi mới vượt rừng vượt núi đi về
phía Nam. Đi đến đâu họ lập đền thờ đến đấy. Chính vì thế mà ở vùng này có
nhiều đền thờ đến thế: Đồi Dài, Quán Cháo, Đền Dâu, Đền Rồng, Chín Giếng.
Theo truyền thuyết còn lưu lại đến
ngày nay thì xưa ở vùng đất này, nghề trồng dâu nuôi tằm của nhân dân ta đã
phát triển rất mạnh. Ngôi Đền Dâu ở ải Cửu Chân cũng như ngôi Chùa Dâu ở thành
Luy Lâu, tỉnh Bắc Ninh đều được xây dựng từ thời thuộc Hán. Qua binh lửa chiến
tranh tàn phá, vùng ải Cửu Chân không còn người ở thì những cánh đồng dâu, gai
cũng biến mất. Nhưng ngôi đền thiêng nằm giữa cánh đồng dâu (Tang dã linh từ)
vẫn gắn liền với đất đai địa phương do các vị bô lão thuộc thôn Lý Nhân, xã Yên
Bình, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình trông coi và quản lí. Mỗi khi đất nước trở
lại thanh bình yên ổn, người ta lại dựng lại ngôi đền. Và cứ thế, sau nhiều lần
mất đi, nhiều lần dựng lại, ngôi đền vẫn tồn tại đến ngày nay. Đền Dâu ở phường
Nam Sơn được thờ ba vị nữ thần trông coi việc tằm tơ canh cửi mà nhân dân ta
thường gọi là đền thờ ba vị thánh mẫu là: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
Thoải. Trong đó công chúa Liễu Hạnh là
một trong những vị thần "tứ bất tử" của truyền thuyết nước ta. Trong
đền có bức đại tự "Từ linh dã tang" (Đền thiêng giữa cánh đồng dâu)
và rất nhiều câu đối uyên thâm. Xin trích dẫn 2 câu:
1) Phiên
âm: Lục dã tang ma miêu thực ấm
Thuý vi cung khuyết bản thừa ân.
Dịch nghĩa: Nương bóng ấm dâu gai xanh ngắt
Nhớ ơn xưa cung
khuyết Thuý Vi.
2) Phiên âm: Hoàn bôi hữu thanh y đế khuyết
Tang điền bất biến
tập thiên hương.
Dịch nghĩa: Vang tiếng ngọc đeo nương cửa khuyết
Nương dâu còn mãi
ngát trời hương.
-----***-----
*Vua Thiệu Trị ví đèo Tam Điệp hiểm trở như núi Vương Ốc, một ngọn núi
rất cao, rộng hàng mấy trăm dặm, không có đường đi lại nằm về phía nam Kỳ Châu,
Trung Quốc.
** Làng La Phù nay thuộc xã Yên Thành,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nằm phía tây nam, cách Tam Điệp khoảng 10 cây số
là nơi Tràn Ngỗi, nhà hậu Trần lên ngôi. Nơi đây hiện còn lăng miếu của Trần
Ngỗi và Trần Quý Khoáng.